Nguyên tắc Premack là gì? Định nghĩa và ví dụ

Artículo revisado y aprobado por nuestro equipo editorial, siguiendo los criterios de redacción y edición de YuBrain.


Nguyên tắc Premack , được phát triển bởi nhà tâm lý học người Mỹ David Premack, là một trong những lý thuyết về hành vi nói rằng một hành vi ít có khả năng xảy ra hơn có thể được củng cố bằng một hành vi có nhiều khả năng xảy ra hơn . Ví dụ, nếu trẻ không thích ăn rau, hành vi này có thể đạt được và củng cố nếu nó đi kèm với một hành vi mong muốn hơn, chẳng hạn như ăn món tráng miệng hoặc thức ăn khác mà trẻ thích.

Nguồn gốc của Nguyên tắc Premack

Để hiểu rõ hơn về Nguyên tắc Premack, điều quan trọng là phải tính đến bối cảnh lịch sử nghiên cứu về hành vi, vốn đã đặt nền móng cho sự phát triển của lý thuyết này.

Nghiên cứu về hành vi

Trong thế kỷ 20, nhiều đóng góp đã được thực hiện trong lĩnh vực tâm lý học. Các nhà tâm lý học khác nhau tập trung vào việc nghiên cứu tâm trí, cảm xúc và tính cách. Đồng thời, việc phân tích hành vi của con người trở nên quan trọng hơn.

Đây là cách chủ nghĩa hành vi phát sinh, một xu hướng khoa học tập trung vào nghiên cứu thực nghiệm về hành vi. Một số tài liệu tham khảo của chủ nghĩa hành vi là các nhà tâm lý học người Mỹ JB Watson (1878-1958) và Burrhus Frederic Skinner (1904-1990), trong số những người khác.

Một trong những đóng góp của Skinner chính xác là kết luận của ông rằng hành vi được xác định bởi sự củng cố tích cực hoặc tiêu cực mà nó nhận được sau khi thực hiện. Nghĩa là, một hành vi cụ thể có xu hướng được lặp lại nếu có phần thưởng (củng cố tích cực), không có phần thưởng hoặc hình phạt (củng cố tiêu cực).

Giới thiệu về David Premack

David Premack (1925-2015), một nhà tâm lý học người Mỹ khác, đã tiếp tục và đào sâu thêm hướng nghiên cứu về hành vi này và thành lập “Thuyết tương đối củng cố”, hay còn được gọi là Nguyên tắc Premack.

Premack bắt đầu nghiên cứu của mình vào năm 1954, nghiên cứu hành vi của khỉ mũ và tinh tinh. Năm 1959, ông công bố nghiên cứu đầu tiên về củng cố tích cực, nghiên cứu này sau đó được ông mở rộng vào năm 1965, dẫn đến lý thuyết của ông.  

Cho đến lúc đó, ý tưởng rằng một hành vi có thể được củng cố bằng phần thưởng đã được ủng hộ. Premack đã đi xa hơn và coi trọng khái niệm “củng cố hơn”, chỉ ra rằng một hành vi mong muốn nhiều hơn hoặc ít hơn có thể củng cố một hành vi mong muốn hơn và ít xảy ra hơn. 

Nguyên tắc Premack là gì

Nguyên tắc Premack, cái tên tôn vinh người tạo ra nó, khẳng định rằng có hai loại hành vi:

  • Một hành vi xảy ra tự nhiên và không cần củng cố. Nó thường là một hoạt động dành nhiều thời gian hơn. 
  • Hành vi ngẫu nhiên, nghĩa là nó có thể xảy ra hoặc không. Nói chung, đó là một hoạt động không hấp dẫn hoặc một hoạt động không tạo ra đủ động lực.

Những hành vi này được Premack phân loại lần lượt là “hành vi xác suất cao” và “hành vi xác suất thấp”. Đó là, một hành vi xác suất cao là một hành vi được mong muốn hoặc làm hài lòng cá nhân. Do đó, nó có nhiều khả năng được thực hiện. Mặt khác, hành vi ngẫu nhiên là hành vi không hấp dẫn đối với cá nhân và do đó, ít có khả năng được thực hiện.

Nguyên tắc này, còn được gọi là “quy luật của bà” hoặc “sự củng cố tích cực”, cho rằng hành vi có xác suất cao có thể củng cố hành vi có xác suất thấp. 

Ví dụ, ăn kẹo có thể là một hành vi có khả năng xảy ra cao đối với một đứa trẻ, nhưng ăn rau có thể là một hành động có xác suất hoàn thành thấp hơn. Tuy nhiên, nếu đứa trẻ được nói rằng nếu nó ăn rau trước, nó có thể ăn đồ ngọt sau, thì hành vi ít khả năng đó sẽ có nhiều khả năng được thực hiện hơn.

Nói cách khác, nếu đứa trẻ đầu tiên làm điều gì đó mà nó ít thích hơn, và sau đó, do kết quả của hành động trước đó, nó làm điều gì đó mà nó thích hơn, thì nó sẽ có xu hướng thực hiện hành động mà nó thấy kém vui hơn.

Đồng thời, Nguyên tắc của Premack nói rằng sự củng cố là tương đối, vì không phải tất cả các hành vi đều có xác suất giống nhau đối với tất cả mọi người. Điều này sẽ phụ thuộc vào sở thích cá nhân của mỗi cá nhân và thời gian họ thường dành cho hoạt động đó.

thí nghiệm và nghiên cứu

Sau khi thử nghiệm với các loài linh trưởng, Premack đã thực hiện một số thí nghiệm để kiểm tra tính hiệu quả của lý thuyết của mình đối với con người. Một số nghiên cứu của ông được thực hiện với trẻ em, và thậm chí với con của chính ông.

Trong một thí nghiệm như vậy, Premack đã cho bọn trẻ hai lựa chọn: ăn kẹo hoặc chơi bắn bi . Tương tự như vậy, ông đã phân tích xác suất của những hành vi này ở mỗi đứa trẻ, tùy theo sở thích của chúng. Sau đó, các em phải trải qua hai giai đoạn được xác định bởi các hành động sau:

  • Chơi pinball để có thể ăn kẹo. 
  • Ăn kẹo để có thể chơi pinball .

Kết quả xác nhận Nguyên tắc Premack: trong trường hợp đầu tiên, hoạt động ít có khả năng xảy ra nhất (chơi bắn bi ) được củng cố ở những đứa trẻ thích ăn kẹo hơn chơi bắn bi . Trong trường hợp thứ hai, hoạt động ít có khả năng xảy ra hơn (ăn kẹo) được củng cố ở những đứa trẻ thích chơi pinball hơn .

điều tra khác

Nguyên tắc Premack cũng đã được xác minh với các cuộc điều tra tiếp theo khác ở cả động vật và con người. Các nhà nghiên cứu Allen và Iwata đã công bố kết quả nghiên cứu của họ về một nhóm người khuyết tật tâm thần trong bài báo Củng cố việc duy trì tập thể dục: Sử dụng các hoạt động có xác suất cao vào năm 1980. 

Trong cuộc điều tra này, những người tham gia đã tăng cường tập thể dục (hành vi có xác suất thấp) bằng cách chơi trò chơi (hành vi có xác suất cao). Bằng cách này, Nguyên tắc Premack đã được chứng minh.

Nguyên tắc Premack tại nơi làm việc

Năm 1988, nhà nghiên cứu Dianne Welsh đã áp dụng Nguyên tắc Premack cho một nhóm công nhân tại một chuỗi thức ăn nhanh. Trong nghiên cứu của mình, ông đã chỉ ra rằng những người có thể dành nhiều thời gian hơn cho công việc ưa thích của họ nếu họ đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định, sẽ thể hiện tốt hơn trong các công việc khác.

Nguyên tắc Premack trong giảng dạy

Năm 1996, nhà nghiên cứu Brenda Geiger phát hiện ra rằng việc cho phép trẻ em chơi trong sân trường sau khi hoàn thành một số nhiệm vụ nhất định sẽ củng cố việc học, giảm thời gian hoàn thành nhiệm vụ và tăng tính tự giác của học sinh.

Hạn chế của Nguyên tắc Premack

Nguyên tắc Premack có một số hạn chế, vì nó phụ thuộc gần như hoàn toàn vào sở thích của cá nhân và các hoạt động có sẵn tại bất kỳ thời điểm nào. Nếu không thể xác định hoạt động nào trong số hai hoạt động có khả năng xảy ra cao hơn và hoạt động nào ít xảy ra hơn hoặc nếu có nhiều hơn một hoạt động được ưu tiên, thì sẽ khó khăn hơn để thiết lập củng cố một cách hiệu quả. 

Một hạn chế khác là thời gian dành riêng cho mỗi hoạt động. Nếu thời gian của hoạt động có xác suất thấp hơn hoặc được cho là dài hơn thời gian của hoạt động có xác suất cao hơn, thì việc củng cố hoạt động trước cũng có thể không hiệu quả. Ví dụ, nếu một đứa trẻ phải học trong hai giờ để có thể chơi với máy tính bảng của mình trong mười phút, thì động lực của trẻ để thực hiện hoạt động có xác suất thấp nhất (học tập) sẽ không giống như khi trẻ có nhiều thời gian hơn để thực hiện. ra hành động có xác suất cao.xác suất (chơi với máy tính bảng).

Lợi ích của Nguyên tắc Premack

Tuy nhiên, Nguyên tắc Premack có một số lợi ích khiến nó trở thành một công cụ quan trọng:

  • Nó có thể được áp dụng cho trẻ em, thanh niên, người lớn và cả động vật.
  • Cho phép sử dụng củng cố tích cực thay vì củng cố hoặc trừng phạt tiêu cực.
  • Tăng khả năng thực hiện các hoạt động mong muốn.
  • Tạo điều kiện sửa đổi các hành vi xấu hoặc có hại.
  • Hỗ trợ tạo thói quen mới. 

Ngoài ra, nguyên tắc này đã được nghiên cứu và chứng minh trên động vật, còn có tác dụng giải thích và dự đoán hành vi khi áp dụng cho con người, và đã được sử dụng trong tâm lý học và tâm lý trị liệu để phân tích và điều chỉnh hành vi. Hiện tại, nó được sử dụng thành công trong việc nuôi dạy và giáo dục sớm trẻ em cũng như huấn luyện chó. 

Làm thế nào để đưa Nguyên tắc Premack vào thực tế

Để áp dụng Nguyên tắc Premack vào thực tế, chỉ cần làm như sau:

  • Xác định hành vi ít có khả năng xảy ra nhất của một cá nhân, nghĩa là hành vi mà bạn muốn củng cố.
  • Xác định hành vi có khả năng xảy ra nhất đối với cá nhân cụ thể đó.
  • Đưa ra hướng dẫn rõ ràng và chính xác về những gì cá nhân phải làm, theo định dạng: “Đầu tiên….., sau đó…”. Ví dụ: “Đầu tiên, nhặt đồ chơi, sau đó bạn có thể xem TV.”
  • Đợi hoạt động đầu tiên diễn ra.
  • Khi hoạt động đầu tiên kết thúc, hãy cho phép hoạt động thứ hai diễn ra.

nguồn

  • Couñago, A. (2020, ngày 13 tháng 7) Bạn có biết nguyên tắc Premack hay định luật Bà không? Bạn là mẹ. Có sẵn ở đây .
  • ACRBIO. (2017, ngày 12 tháng 12). Nguyên tắc của Premack và củng cố tích cực ở trẻ em để sửa đổi hành vi . Hình ảnh giáo dục. Có sẵn ở đây .
  • Sánchez Fuentes, nguyên tắc thay đổi hành vi xấu của A. Premack . Giáo dục những đứa trẻ nhỏ. Có sẵn ở đây .
  • Martínez Pellicer, A. (2020, ngày 20 tháng 4). Nguyên lý Premack. Làm những gì bạn không thích . Không gian trị liệu của bạn. Có sẵn ở đây .
  • Sierra, N. (2017, ngày 23 tháng 10). Nguyên tắc của Premack được hiểu rõ. EFPC. Có sẵn ở đây .
  • Premack, D. (1959). Hướng tới các quy luật hành vi theo kinh nghiệm: I. Củng cố tích cực. Đánh giá tâm lý, 66 (4), 219–233. Có sẵn ở đây .
  • Allen, L.D., & Iwata, BA (1980). Củng cố duy trì bài tập: Sử dụng các hoạt động có tỷ lệ cao hiện có. Sửa đổi Hành vi, 4 (3), 337–354. Có sẵn ở đây .
  • Welsh, D. (1988) Nguyên tắc Premack được áp dụng cho hành vi thực hiện chất lượng của nhân viên bán thời gian . Đại học Nebraska. Có sẵn ở đây .
  • Geiger, B. (1996). Một thời để học, một thời để chơi: Một ứng dụng của nguyên tắc Premack vào lớp học. Giáo dục Trung học Mỹ, 25, 2-6. Có sẵn ở đây .
-Quảng cáo-

Cecilia Martinez (B.S.)
Cecilia Martinez (B.S.)
Cecilia Martinez (Licenciada en Humanidades) - AUTORA. Redactora. Divulgadora cultural y científica.

Artículos relacionados